Xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII , dưới con mắt một giáo sĩ phương Tây


 Ghi chép từ cuốn                


Lịch sử tự nhiên dân sự và chính
trị xứ Đàng Ngoài


                                      Jerome  Richard 
-- Paris
1778





Lời dẫn


    Trong cuốn Tư liệu
văn hiến Thăng Long Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây
 NXB Hà Nội 2010, nhà sử học Nguyễn Thừa Hỷ cho
biết trong việc cung cấp cho người đọc hiện đại những nét phác họa về Thăng
Long Kẻ Chợ thời Nam Băc phân tranh, thì  Lịch sử
tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài
của giáo sĩ Jerome Richard thuộc
loại tài liệu đáng chú ý nhất.




       Theo sự chỉ dẫn đó, chúng tôi tìm đọc và
 thấy rõ cách đây hơn hai thế kỷ, cuốn
sách đã được biên soạn theo hướng viết lịch sử xã hội là một việc mà ở
ta chưa ai làm, nên càng cần thiết phải đọc.


       Dưới đây là một số ý tưởng, một số nhận
xét của tác giả mà khi đọc sách tôi đã ghi chép lại và  thử diễn giải lại
theo cách hiểu của mình. Giới thiệu chúng ở đây, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ một hướng suy nghĩ
trong khi làm việc, đó là muốn lý giải hiện
tại phải trở lại với lịch sử
. Và với cả cộng đồng, những nhận xét từ bên
ngoài nhiều khi đau xót, nhưng là cần thiết trên con đường tự nhận thức.




 Phần đầu của cuốn
sách dành để  miêu tả chung về nhiệt độ,
khí hậu, cư dân… của Đàng Ngoài, trong đó đoạn nói về Vịnh Đàng Ngoài kể là c
ó một hòn
đảo, được người Hà Lan đặt tên là Đảo
cướp
. Chủ đảo là một võ tướng lo thu thuế.





Các "đô thị" - chỉ là để
tập trung dân, mật độ ngang thành phố châu Âu. Các đô thị này chẳng có gì khác
nhau. Chỉ có Kẻ Chợ đáng gọi đô thị. Thành phố trật tự, nhưng có những trò kỳ cục như  bắn tên có
mồi lửa trong đêm vào các nhà rơm rạ gây ra đám cháy.





Người Trung Hoa có mặt ở khắp nơi trong cả vùng đồng bằng. Ở đô thị càng đông, mạnh.




Các loại phương tiện giao thông


-     
Ngựa: quan;


-     
chân trần: dân;


-     
cáng: nhà giàu, người có địa vị


Từng có cầu đá do người Trung Hoa xây rồi vì chinh chiến, bị
phá.


Vùng núi sống trong dốt nát và dã man. So sánh: lúc này ở
Trung Hoa đã có lúa vụ  ba. Nhưng ở Đàng Ngoài thì chưa. 


Do thiên nhiên chiều đãi, con người nơi đây tế nhị,
khéo léo nhưng yếu ớt và ít dũng cảm.





  Cách cư trú, phong
tục


Có khoảng 9.000 thôn xóm và 3.000 đơn vị phụ gọi là trại.


Dân miền núi bị coi là man di, nhưng theo các nhà truyền
giáo, trong các dân cư ở đây, người H'mông - nhiều nhân tính nhất. Họ ghê sợ
với tục lệ dân miền xuôi. Xứ miền núi này cung cấp những chiến binh dũng cảm
khi cần. Có người Tartar. Sống du cư, giỏi chữ Hán, giỏi buôn bán. (Có lẽ là
H'mông - VTNh)





Tính cách con người


Người dân đồng bằng bị các nhà truyền giáo coi là thô lậu,
cả tin, mê tín. Như một bọn du đãng, sông trên thuyền, trên sông. Thật ra không
phải vậy. Ở đây, dịu dàng và yêu thích bình yên là tính cách ngự trị. Cạnh đó
lại hiếu động hay bị chia rẽ - thường xuyên nổi dậy và mưu phản.


Dân chúng bị lối cuốn vào các cuộc nổi dậy đó như một trò
chơi, hơn là  bởi tham vọng hay tư tưởng
về một cuộc sống hạnh phúc hơn. Những vị quan đầu triều ( = những người ưu tú
nhất) không bao giờ tham gia các cuộc nổi dậy này.


Đặc tính người bên lương (thờ Phật )


- luôn luôn không hài lòng với hiện trạng


- ham tài sản, độc ác, phản trắc


- coi cuộc đời như một cực hình


- sẵn sàng phụ bạc vì món lợi nhỏ.


Nhà nước cấm đạo. Chính ra dân cư các làng xóm lại hay đi
tố giác để kiếm lợi. Sự mê tín + tâm lý vụ lợi 
= cuồng tín.





Giao thiệp với người
châu Âu
. Triều đình biết quá ít về những lợi ích
của mình  nên không buôn bán với người
nước ngoài.


Một số trao đổi lặt vặt chỉ nhằm thỏa mãn những ao ước rất
tầm thường: vài cái váy dạ, ít đồ gỗ. Vì người dân  không đi đâu nên những cái vớ vẩn đó cũng
thành hương xa hoa lạ. Xem chuyện nơi xa là hoang đường.





Ăn mặc: không tất,
không giày, không quần lót.


 Giày dép là để phân
biệt ngôi thứ:


- dân thường bị cấm.


- chỉ hạng tiến sĩ mới được dùng dép


- chỉ người hoàng tộc mới được đi giày.





Đời sống tinh  thần. Bộ máy quản lý


Nhìn chung dân có tinh thần sáng suốt, minh mẫn. Sẵn một
bản năng khéo léo, chỉ thiếu khoa học – sinh ra tính ỳ.


 Nhưng nghèo khổ quá
khiến người ta chỉ nghĩ đến sinh tồn tức là phó mặc mình cho sự biếng
nhác bẩm sinh. Bộ máy hành chính sẵn sàng “vét cạn” các mầm mống tài năng. Bộ
máy này ngu dốt và kiêu căng, nhưng có quyền lực. Họ đối xử với những người khéo
tay hơn họ và giàu hơn như nô lệ.





Quan lại đóng vai cái gì cũng biết hết. Thật ra họ không biết,
họ dốt song làm bộ làm tịch coi người khác như công cụ. Thuế rất nặng. Dân ở các vùng cằn cỗi
không nộp thuế bằng thóc gạo thì phải nộp bằng cỏ.


Việc quan: sáu tháng trong một năm. Hoặc việc công, hoặc đi
phục dịch các đức ông.


Sở dĩ chính sách khắc nghiệt  vì người ta cho là phải làm thế mới trị được
một đám dân hiếu động và dễ phản loạn.


Các ông chủ chỉ yên tâm nghỉ ngơi khi mọi người lao động làm
việc liên tục và chỉ có một đời sống tầm thường. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ
một số người thử vận may trong buôn bán.





Theo những mẫu mực Trung Hoa .


 Phong tục Đàng Ngoài bắt nguồn một phần lớn từ những tục lệ của nước Trung Hoa.


Người Hoa đã có một thời gian dài là chủ nhân
xứ Đàng Ngoài. Họ đã đưa vào đây luật lệ, ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo...Phong
tục Đàng Ngoài cũng có nhiều mối liên hệ với phong tục Trung Quốc.


Ngôn ngữ Trung Hoa là ngôn ngữ bác học. Nho sinh Việt Nam
gần giống Nho sinh Trung Quốc.


Vẫn có một thứ biệt ngữ. Một ngôn ngữ và một chữ viết
riêng xuất phát từ Trung Hoa.





Luật pháp


 Có luật, chẳng hạn luật cấm rượu nhưng ít được tuân thủ.
Luật chỉ có tác dụng với kẻ non gan. Ngoài ra, nói chung, không tuân thủ không
sao.


Sự phóng đãng được dung thứ, tức gần như được phép.


(VTNh:  Luật
chỉ  có
tính chất nửa vời)


- ít đi học vì nghèo


- Có hiện tượng bán con vì nghèo


- Nhận làm con nuôi quan chức để xin được bảo kê


Nạn vay nặng lãi phổ biến.


Người đi vay dễ vỡ nợ. Luật pháp đứng về phía chủ nợ. 





Văn hoá giao tiếp 


 Có sự phân biệt rõ ràng


- dân gian: buông thả


- quý tộc: nghi thức chặt chẽ hơn


Nhiều phụ nữ được coi là vô cùng dễ dãi. Họ buông thả mình
cho những người ngoại quốc với cái giá rất xoàng...


Quan to đi chơi bằng ngựa. To nhỏ dựa vào số người đi hầu
kèm theo hộ vệ.





Con người Đàng Ngoài không có xu hướng khám phá, không có
tính thần học hỏi, kể cả trên phương diện nghệ thuật. Nhưng lại thích -- với
những gì sử dụng hàng ngày và những cái đã biết -- chứng tỏ là mình xa hoa sang
trọng. Họ rất ham thích khoái lạc. Lý do: khí hậu nóng bức, đất đai màu mỡ, dễ
sống.


Người  ta quen với
chế độ chính trị chuyên chế; chịu đựng mà không thấy khổ. Biết nhà nước tự do
là hay hơn. Nhưng không đủ sức đấu tranh.


Một số dũng cảm khởi nghĩa, dân chúng có theo và người ta
hứa với họ đủ điều. Nhưng kết thúc bằng tái lập chế độ độc đoán.


Sau biến động, con người tự nhủ quá hạnh phúc khi có thể
trở về bình yên dưới cái ách vốn có từ trước.


Trong giao thiệp thăm viếng con người, tránh nói chuyện
buồn rầu. Không có đồng hồ. Thời gian chỉ được ước tính.  Ai cũng vậy.





Lễ hội 


 Phóng túng
quá đáng, đến mức suồng sã. Người nghèo cũng bất cần đời. Sợ ra ngoài mùng một tết - sợ điều xấu.
Bọn trộm rình rập khắp nơi, ám hại người trên đường.


Các làng quê có nhà hát trò, chèo tuồng. Các loại quần áo
rất kỳ cục,  vay mượn từ Trung Hoa nhưng lại làm xấu đi, quê kệch hơn. Nội
dung tích trò là ca ngợi vua chúa và người có công với nước, xen vào chuyện
tình yêu và chuyện phiêu lưu.


Trò chơi - chọi gà, câu cá.


Nhìn chung, khi không bắt buộc phải làm việc, những người
dân sống ở Đàng Ngoài yếu đuối và biếng nhác. Hạnh phúc lớn nhất của họ chỉ là
thoả mãn thói phàm ăn. Chỉ có những niềm say mê hầu như luôn có hại cho xã hội
(VTNh: những niềm say mê bệnh hoạn) mới kéo người ta ra khỏi tình trạng uể oải.





 Tôn giáo


Với quần chúng vô học, tôn giáo ở đây là thực hành mê tín.
Chẳng có gì là không có thể thành vật thờ cúng. Nhưng đối tượng của mê tín lại
luôn luôn thay đổi. Hôm nay được tôn sùng mai bị lãng quên, thậm chí bị phỉ
báng.


Không có gì lâu bền. Nên có thể nói chẳng có tôn giáo gì
cả. Chùa có ở mọi trấn, xã, song đều xây dựng cẩu thả, và trông thì xấu xí.


Rất nhiều thuật sĩ bịp bợm. Quyền lực của họ vươn từ những
người dân dưới đáy tới vua chúa.





Về Khổng Tử và Nho giáo


Các giáo điều chính:


- lưu ý sức mạnh trí tuệ. Đặt vấn đề có được hiểu biết bên
trong về sự vật


- nhấn mạnh chữ tâm


- đề cao lòng thành.





 Khoa học, kỹ thuật.


Khoa học - lo nghiên cứu bình chú Khổng Tử. Địa lý thiên
văn cổ lỗ. Lịch sử chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia.


- Không hiểu gì về thế giới.


- Giải thích về khí hậu rất nực cười.


Dân tộc này chỉ quen nhận thức những vật thể có hình hài
và cảm giác. Mọi biện luận siêu hình bị coi là vô bổ.


Dửng dưng với việc đi tìm chân lý, họ chỉ quan tâm tới
những quan nịêm mang tính đạo đức.





Giáo dục và thi cử


Tham nhũng, thiên vị, thiên kiến... là tình trạng bao trùm trong cả vương quốc.


Do đó các cuộc thi tiến sĩ dù cố tỏ ra nghiêm khắc cũng chỉ vô ích. Học hành chẳng theo chương trình nào. Khả
năng đỗ phụ thuộc trí nhớ  (chứ
không phải kiến thức). 


Người thi đỗ được miễn mọi khoản thuế. Địa vị quý tộc
không được truyền lại cho con cháu. Mà mỗi cá nhân, đến lượt mình, tự xác định
cho mình.





Học người xưa không hề có phê phán. Không học ngoại ngữ. Vua
có thông ngôn - tiếng Hoa, tiếng vài nước láng giềng, tiếng Bồ Đào Nha.


Người làm mỹ thuật tay nghề đơn sơ, ít khao khát hoàn
thiện; bó chặt trong quy phạm lâu đời. Khuôn mặt trên các tác phẩm điêu khắc
trông khủng khiếp và kỳ quái.


Mọi nghề nghiệp đều chỉ tiến hành với những dụng cụ đơn
giản như làm việc không cần thước.





Nội ngoại thương trong cái bóng của người Hoa


Nhiều tiềm năng. Nhưng chính quyền không muốn dân giàu sợ
thần dân một khi tích tụ tài sản, sẽ sinh tham vọng, kiêu căng không còn thói
quen phụ thuộc tuyệt đối, nh
ư là cái đảm
bảo cho sự cai quản của nhà vua. Cũng có những người giàu lên nhưng phải cống
nộp quan trên khá nhiều.


Ngay người Hoa cũng phải hối lộ quân vương. Thương nhân
bản xứ bị xem là đáng sợ nếu quan hệ với người ngoại quốc.





Các ngành thương nghiệp và thủ công nghiệp của người Hoa
tối cần đối  với sự sống còn của vương
quốc.


 Trong thương mại
của người Hoa có một ngành khá nổi bật: thuốc bắc. Ngoài ra, họ còn buôn bán
chè, đồ sứ, tơ lụa, vải, dùng bột mì, nồi niêu, đồ sắt.


Người Hoa không truyền nghề cho cư dân bản địa để giữ bí mật. Từ đó, người Việt có niềm tin
mình không thể làm gì bằng người Hoa.


Nghề người Hoa làm:


- khai thác hầm mỏ


- đúc vàng bạc


- khắc ván in, làm ra những cuốn sách.


Dùng sức mạnh tài trí, khiến người ta cần đến họ. Rất
nhiều mánh khoé. Sống ở Đàng Ngoài, người
Hoa bảo tồn trang phục. Họ là người
cung cấp hàng  cao cấp cho chính quyền và
đây là việc họ không thích nhưng buộc phải làm thì mới có quyền tha hồ bán các
loại hàng khác cho dân thường.





 Người Hà Lan từng làm một con đê ở đây.


Người Anh cũng mang đến các mặt hàng như người Hoa. Ví dụ
các loại đá quý, ngọc trai, nhưng đáng chú ý: đá giả mới bán chạy.


Dân nghèo quá, nhiều khi lại mua chịu và hay quỵt. Khi tàu
buôn đến, có lính đến khám. Tàu buôn phải giấu ngay các mặt hàng quý. Bộ máy
hành chính từ vua xuống tự cho mình quyền tha hồ quấy đảo đám lái buôn này.


Kỹ thuật đúc tiền kém cỏi. Tiền rất dễ thành vô giá trị.
Rồi tiền từ Trung Hoa tới -- "hiếm có quốc gia nào trên thế giới có quá
nhiều kẻ đúc tiền giả như vậy"


Mỏ vàng bạc chỉ người Hoa biết khai thác, và nộp cho chính
quyền bao nhiêu, là do họ tính.




Dân Đàng Ngoài hiếm khi sử dụng tới phép đo lường trong
buôn bán. Dùng tay để đo vải. Gạo đỗ, đong bằng khối hoặc ước lượng. Buôn thóc gạo bị cấm,
nhưng vẫn diễn ra khá sầm uất.


Mức lãi của người buôn lên tới 1/3, mặc dù vậy, người Đàng
Ngoài chỉ là "những tay buôn vô cùng kém cỏi".Buôn vải, tơ. Buôn quế -
vua độc quyền khiến  dân miền núi thành
kẻ buôn lậu. Đường cũng mua của người Hoa. Khai thác rừng tre  cũng tuỳ tiện. Ai
muốn, chỉ cần nộp ít tiền cho người quản lý hành chính là chặt thoả thích, hoặc
đốt, phá nhiều tre đưa trở về qua đường sông.


Đàng Ngoài có thể là điểm trung chuyển lý tưởng cho thương
mại Âu Á. Nhưng chính quyền sợ người nước ngoài nhân cớ đó để xâm lược. Đáng lẽ
phải ngờ người Hoa vì họ đã từng nắm giữ chủ quyền ở đây. Song vì lý do cùng
chung phong tục, tín ngưỡng… người Hoa không bị ngờ như người  châu Âu.





 Biến động  của quyền lực trong lịch sử


 Dù từng là một bộ phận của Trung Hoa, song đây vẫn là
một  sắc dân hoàn toàn khác biệt. Trung Hoa gọi họ là man di.


Thời đó người ở đây chưa có chữ. Dùng chữ Hán. Các thủ
lĩnh bản địa, tuyên bố mình là chủ nhân của mảnh đất này. Dân theo sự dắt dẫn
của họ, các thủ lĩnh thường có sự giúp đỡ của bọn du đãng. Nội chiến (12 sứ
quân). Lê Đại Hành xưng vương…


Nhà Minh sang, sau Lý Trần, thi hành luật lệ, phong tục,
cách làm ăn kiểu Trung Hoa “bắt dân chúng phải tuân theo một lối sống giống
nhau”. Nhờ vậy, một trật tự vững chắc được thiết lập và bảo lưu đến tận cuối
thế kỷ XVIII.





Dân chúng dù lấy làm tự hào tuân thủ các phong tục
và luật lệ của ông chủ phương Bắc nhưng nó không làm cho họ quên đi ký ức về sự tự do
xa xưa và mong ước trở lại.


Quan hệ  với Trung Hoa: có triều cống, nhận ấn phong vương
“coi như một dấu hiệu độc lập và một sự xác nhận với việc lên ngôi”; nhưng
không vì triều cống mà những vị vua này hoàn toàn không phải là những chủ nhân
ở đất nước họ.


Nhà Lê suy yếu.  Mạc
Đăng Dung (một “kẻ phiêu lưu”) cướp ngôi. Nguyễn Kim giúp khôi phục mang theo
sự hình thành thể chế nhà chúa. Trịnh Kiểm- người có tài năng và phẩm chất dị
thường, từng là thủ lĩnh bọn cướp.





Hình thành Đàng Trong. Nguyễn Hoàng vẫn thần phục nhà Lê
nhưng tự tuyên bố độc lập. Đàng Trong ngày một rộng lớn nhiều chúa tể nhỏ hơn, trở thành thuộc quốc của vị tướng này.


Ở phương Đông được
làm vua thua làm giặc
.
Còn ai cũng gian ác. Vua
là một danh nghĩa, giống như một đồ
trang sức.


Vua chỉ có quyền hão (Chúa quản lý hết và có quyền thế tập).
Vua ngủ say trong niềm vui thú và bạc nhược. Làm quen với sự thụ động và nhàn
rỗi. Dòng chúa tự sàng lọc, chỉ có người con kế vị có quyền, ngoài ra đa số bị
đẩy vào cảnh nghèo đói.
Một số bị điên.


Cả nước bị tàn phá bởi cuộc chiến,
đất đai bỏ hoang, nạn đói khủng khiếp. Trong khoảng 8 năm trời, 1/3 dân chúng
của vương quốc đã chết.





Lực
lượng quân đội


Do hoạn quan chỉ huy (chức vụ có
được là do mua). Nghề binh ở đây cha truyền con nối.





Luật
pháp
.


Luật Đàng Ngoài vốn được rút ra từ
luật của Trung Hoa. Luật cổ luôn quan tâm tới lợi ích của dân chúng. Người
nghèo cũng được bảo vệ.


Nhà vua được xem là người duy nhất
quan tâm đến lợi ích chung. Còn tất cả những người khác chỉ hoàn toàn chăm chú
đến lợi ích của riêng họ. Nhưng
ở  thời này, vua bị loại ra rìa, bị vô
hiệu hóa, cộng đồng này chỉ còn quỷ, mà chúa là tên quỷ lớn nhất.





Thói quen ăn hối lộ vững chắc trong quan chức. Có thể đạt với bất kỳ điều
gì bằng sức mạnh của đồng tiền. Người ta phải xuất vốn 20-30 ê-quy cho một chức
vụ.


Người hiểu biết phải kinh ngạc vì
bọn quan lại bạo ngược. Nhưng vua không biết gì hết.





  Nhìn
đại lược về hạnh kiểm của dân chúng thì sẽ thấy rất nhiều điều đáng phàn nàn,
và ngay cả ở những điều quan trọng nhất. Không có một dân tộc nào trên trái đất
này -- nấp sau vẻ ngoài trầm tĩnh và đức độ như người Trung Hoa -- lại gian xảo
hơn, vụ lợi hơn, phó mặc mình cho những niềm đam mê hơn và  hăng hái hơn trong việc thoả mãn bản thân.


 Họ luôn tìm cách lừa dối nhau. Đối với người
nước ngoài lại càng không có sự an toàn nào, nghĩa là luôn luôn trong trạng
thái ngờ vực.





Rất nhiều luật lệ, có những điều
luật thể hiện công lý nhân văn và từ thiện hơn luật pháp Trung Hoa.


Nhưng không phải chúng được thực
hiện. Các thẩm phán luôn luôn đứng về phía người có của. Tất cả đều có thể mua
bán một cách tuỳ tiện.





Có thời khoảng thế kỷ XVI (?) tuy,
đất nước thịnh trị, luật lệ nghiêm khắc. Nhưng một vị chúa đầu thế kỷ
XVIII  (70-80 năm trước khi xuất bản sách
này) đã thay đổi tất cả. Tăng thuế. Ngông cuồng hưởng lạc. Tăng cường quyền lực
cho đám hoạn quan đến mức vô bờ bến. Và tăng cả số lượng, tới mức chúng làm cho
đất nước trở nên nghèo đói.


Vết nhơ về sự chuyên quyền ghi sâu
trong đời sống toàn bộ dân chúng vì chẳng có cách gì để chống lại sự hám tiền,
hám quyền của bọn quan lại.





Ngoài ra những lo lắng, sự ngờ
vực, sự thiếu cạnh tranh đã bóp nghẹt mọi tài năng, căng thẳng tinh thần, làm
xẹp đi mọi tham vọng chính đáng. Người dân không còn nhìn đâu xa hơn cuộc sống
tầm thường quanh mình.





Nhà tù


Đó thực sự là một nơi khổ hình bất tận. Giường của tù nhân
chính là nền đất ẩm ướt. Đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn và ngủ trong bóng tối,
bùn, và rác. Thường xuyên là người sống chung với những xác chết bị thối
một nửa. Cai ngục là bọn đáng ghê tởm.


 Nhưng đó là một
nghề được ưa chuộng. Người ta phải nhờ cậy chạy chọt mới có được chân cai ngục
và họ sẽ giàu lên bằng sự tàn bạo.





  Khả năng tự biến đổi , tự hoàn thiện


Chế độ chuyên chế tuyệt đối đã đối kháng với sự phồn vinh
của quốc gia. Nó làm cho trình độ sống của cộng đồng - chẳng hạn hoạt động kinh
doanh-- không bao giờ được nâng lên.




Ở đây, mọi sự vượt trội và một khao khát  mưu cầu danh tiếng đều dễ bị coi là một thứ
tội phạm. 


Đốn mạt nhất là những hoạn quan khóac đầy mình những chức tước. Chúng
tàn bạo và cho phép mình tha hồ cướp bóc công khai của cả quan chức lẫn dân thường. 


Vì rằng mọi tài sản đều là tạm
bợ  và những vinh hiển cũng chỉ có lúc,
con người sinh ra hư vô, họ cảm thấy  trước xu thế nghèo khó chung, rồi chẳng có gì
cứu được họ. 


Tuy nhiên nếu được cai trị tốt hơn thì dân chúng vẫn có thể tự
hoàn thiện và sẽ chẳng khó khăn gì trong việc yêu cầu họ thực hiện những đức
hạnh phổ quát hữu ích cho xã hội. 







 Bài đã đưa  lần đầu trên blog này , ngày 27-5-2011


  Trong những ngày tiếp chúng tôi sẽ có một bài
bàn riêng về








việc sử dụng các tài
liệu nước ngoài khi nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt









Xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII , dưới con mắt một giáo sĩ phương Tây  Xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII , dưới con mắt một giáo sĩ phương Tây Reviewed by Phạm Thu Hương on 06:26 Rating: 5

Không có nhận xét nào: