Nguyễn Du như một thi sĩ


                        
Bài viết  này được  lần đầu trên Phụ san Thơ (19+20) của báo Văn nghệ, Hà Nội, số ra ngày
19-2-2005.  Đã được đưa trên Talawas 15-3-05 với một vài chi tiết
 sửa chữa và bổ sung.  Tiếp đó in lại trên tạp chí Gió O với Lời giới thiệu sau.                                               





 Trong số những
cây bút phê bình lý luận Việt Nam hiện đại, Vương Trí Nhàn là một người từ mấy
chục năm nay đã tạo được một giọng điệu riêng khó lẫn. Ông không phải là người
tiếp cận thật sâu một vấn đề gì đó và triển khai nó đến tận cùng, mà thường vấn
đề gì cũng lướt qua một cách nhẹ nhàng, nhưng lại có những nhận xét khá thâm
thúy. Cách đây hơn 40 năm, qua thơ chữ Hán Nguyễn Du, tôi đã từng cố gắng gợi ý
với bạn đọc hình ảnh một 
con người trằn trọc suy tưởng - đối
lập với 
con người hành động của loại nhà nho tế thế nói chung
- nhằm tìm cho mình lời giải về mọi  băn khoăn, hoài nghi mà cuộc đời trầm
thống thường xuyên đặt ra như muôn nghìn dấu hỏi, giằng xé tâm can mình (xin
xem Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán trên
mạng Gió-o tháng 4-2006). Triển khai ý tưởng trên, ở một khía cạnh mới, Vương
Trí Nhàn trong bài viết này đã nâng vấn đề 
con người suy nghĩ của
Nguyễn Du lên bình diện một con người đi tìm sự tự do, mở rộng tầm vóc mình
trong không-thời gian, thông qua sự đối diện với sách vở, cuộc đời và lịch sử,
mà thơ chính là phương cách tốt nhất để nhà thơ thể hiện sự tự do của mình,
cũng là cái ý thức tự giác về lý do tồn tại của chính mình. Nhờ đó thơ ông đã
sống mãi với đời, luôn luôn lấp lánh trong đó một chủ nghĩa nhân đạo vượt lên
khỏi màu sắc “thương” là lẽ thường tình của thế nhân, mà mang màu sắc “hiểu”,
mặt khác còn đặt ra cho người đọc những vấn đề có tính nhân loại, điều hiếm gặp
trong thơ văn truyền thống Việt Nam. Là người tâm đắc với những kiến giải nói
trên, xin mượn diễn đàn Gió-0 đưa bạn đọc đến thẳng với bài viết vốn không dài
của nhà phê bình, để sau khi thưởng lãm, bạn đọc tự giành cho mình quyền phán
xét.


 
Nội 11-4-2006
                                                                                                                                      Nguyễn Huệ Chi











Lý do để sống



“Trong tư thế xếp bằng trên chiếu trải
giữa nền đất, ông ngồi trước một ấm nước chè xanh và một ngọn đèn vặn
nhỏ bằng hạt đậu. Lúc này ông không hề để mắt ngó qua đến sách vở, cũng
chả hút thuốc vặt, mà chỉ so vai lại, thu cả hai bàn tay vào lòng như
một người suốt cả đời luôn cảm thấy rét, hai con mắt lim dim nhìn xuống
chiếu đang nghĩ.“




Mở đầu một bài viết về Nam Cao, Nguyễn
Minh Châu từng vẽ ra hình ảnh tác giả Chí Phèo như vậy. Đoạn văn thật đã
bắt trúng cái thần của con người, và giúp người ta hình dung cách làm
việc kiểu tư duy nghệ thuật của Nam Cao.


Nhưng tôi ngờ rằng, trước Nam Cao khá lâu -
tính ra có đến già một thế kỷ -, có một người nữa còn thích hợp hơn với
cái cảnh ngồi giữa màn đêm, nghĩ ngợi sự đời, người đó là Nguyễn Du.


Dù là lúc sống thanh bần giữa mảnh đất
Nghi Xuân quê hương, hay khi chạy loạn dạt xuống Thái Bình; khi làm chức
quan cai bạ ở Quảng Bình, hay khi giữa đường đi sứ, dừng lại ở những Hồ
Nam, Hàng Châu, An Huy, Sơn Đông… xa lạ mấy đi nữa, thì ông vẫn thường
một mình một bóng như vậy. Và cái tư thế ngồi nghĩ trong đêm đó gợi cho
chúng ta thấy hình ảnh một loại nghệ sĩ xưa nay hiếm, song lại đáng được
coi là cái phần tự hào của nền văn học dân tộc.


Do sống trong một đất nước có lắm gian nan
nên phần lớn người nghệ sĩ trong xã hội Việt Nam trước tiên là những
người hành động.


 Chẳng phải đến nửa cuối thế kỷ XX, với tư cách là những
công dân tham gia hai cuộc chiến tranh liên tiếp, các văn thi sĩ mới tự
nguyện sống theo cái tâm niệm 


Thà một cây chông trừ giặc Mỹ 

- Hơn ngàn
trang sách luận văn chương
”. 


Mà ngay trong các thế kỷ trước, con người
hành động cũng chiếm một phần lớn trong số những người làm thơ có tên
trong lịch sử. 


Nguyễn Trãi tồn tại trước hết như một người tham gia cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, sau đó là một quan chức trong vương triều Lê. Không
kể cái tên Quân trung từ mệnh tập đã nói rõ ý nghĩa những bài văn của
ông, mà ngay những nét tâm tình bộc lộ trong thơ, xa gần cũng có liên
quan đến trách nhiệm công dân mà ông tự nguyện đảm nhận. 


Nguyễn Công Trứ
mải miết làm bằng được các công việc được Minh Mạng, Thiệu Trị giao
phó. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng thơ văn để dạy đạo đức cho mọi người mà
cũng là kêu gọi mọi người cầm gươm đánh giặc. 


Đặt bên cạnh những tiếng
nói sôi nổi đó thì Nguyễn Du có vẻ hơi “lạc đội hình”: Là con người của
những suy tư, ông mải nghĩ hơn mải sống, đúng hơn với ông, nghĩ là hình
thức tốt đẹp nhất của sự sống. Nghĩ bằng thơ, cố nhiên. 


Một câu thơ có
vẻ bâng quơ khi tả hoa sen: Hoa để tặng người mình sợ (Hoa dĩ tặng sở
uý) cứ buộc người ta phải nhớ, bởi có cái gì đó vượt ra ngoài lối thơ đèm đẹp
thông thường để hứa hẹn với người ta rằng ở đây sẽ có những suy nghĩ
thâm trầm về sự đời.


Khi đã như vậy, chỉ có thơ mang lại cho
ông niềm vui và ý muốn làm việc, nó cũng là lý do để ông sống trên đời
này. Không thấy nói trong khi làm quan ông có được chính tích gì đáng
kể. Có vẻ như ông là một vị quan khá xoàng. Ngoài thơ, gần như ông chỉ
còn là con người thừa, con người vô dụng.



Cuộc tìm tòi của chính mình và về chính mình

Tâm lý ổn định vốn là một đặc điểm thường
thấy ở những con người hành động. Chẳng hạn như Nguyễn Trãi. Lý tưởng ở
ông rõ ràng. Niềm tin của ông mạnh mẽ. Nhiều bài thơ của ông có cái tên
ngôn chí. Mà chí với người xưa không chỉ đơn giản là lòng quyết tâm, ý
muốn thực hiện bằng được một việc gì đó, như ngày nay chúng ta vẫn hiểu.
Trong phạm vi đạo Nho, thực ra nó có một nghĩa cụ thể: khao khát muốn
làm cái gì đó cho đời và nhất là sống đúng theo những chỉ dẫn của thánh
hiền. Trước khi là nhà thơ, người xưa vốn không quên mình là nhà Nho, và
trước khi hành động, họ được giáo dục theo một lý tưởng chặt chẽ.




Bản thân Nguyễn Du từng biết đến cái thứ
chí đó. Tráng sĩ đầu bạc bùi ngùi ngẩng nhìn trời hùng tâm sinh kế mờ
mịt cả hai (Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên – Hùng tâm sinh kế lưỡng
mang nhiên
) [1] . Cái hùng tâm theo nghĩa cổ điển đã từng là một trong
hai mối quan tâm lớn của đời ông. Thế nhưng nhìn chung đời Nguyễn Du thì
thấy ngay thực tế là cái tráng khí đó ngày càng phai nhạt và một trong
những đặc điểm làm nên chỗ khác của cả tập thơ chữ Hán của ông so với
các nhà nho chính hiệu: ở đây không có bài nào được gọi là ngôn chí cả. 


 Ông vẫn mê mải đọc sách, đọc bất cứ lúc nào có thể được:

Ở chốn tha hương thường soi gương xem vẻ mặt

Thì giờ đi trên đường gió bụi, một nửa là đọc sách

(Tha hương nhan trạng tần khai kính

Khách lộ trần ai bán độc thư)



Song cái nghĩa quân thân mà những người
như Nguyễn Trãi tự nguyện mang nặng trên vai, ông không san sẻ. Tự ông
trút nó đi tự lúc nào, trút đi để chuốc lấy những băn khoăn lớn hơn nặng
nề hơn và khó xác định hơn - băn khoăn sống sao cho ra một con người.




Cảm động thay lúc cùng đường vẫn được trăng đến thăm

(Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến)





Tóc bạc rồi dù có hùng tâm cũng ngồi than thở suông mà thôi

(Bạch phát hùng tâm không đốt ta)





Ngọn cỏ bồng lìa gốc trước luồng gió tây thổi mạnh

Không biết cuối cùng sẽ bay đến nơi đâu

(Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp

Tất cánh phiêu lưu hà xứ quy)



Những câu thơ trên đều trích trong Thanh Hiên thi tập.
Từ những bài thơ làm trong mười năm gió bụi này, người ta đã thấy cảm
giác bao trùm trong Nguyễn Du là bất lực và vô vọng. 


Trong khi các nhà
thơ chủ trương thi ngôn chí cùng là văn dĩ tải đạo thường khuyên con
người ta phải sống như thế này, phải cảm nhận đời sống theo kiểu kia -
và sản phẩm thơ ở đây giống như những câu trả lời - thì Nguyễn Du hầu
như triền miên sống trong băn khoăn; ông không tìm ra ý nghĩa cuộc đời. 


 Từ đấy, động cơ chi phối thơ ông về sau sẽ là cuộc tìm tòi của chính
mình và về chính mình. Thơ nhiều khi hiện ra như những lời cật vấn,
những câu hỏi siêu hình, trừu tượng, nó làm cho những gì ông viết ra có
cái giọng khác đời, còn ông thì đạt tới tầm vóc của một kẻ sống hết tầm
người, sống để đối diện với những vấn đề của cả nhân loại.


Và, trong thâm tâm, Nguyễn Du biết điều đó.



Không biết hơn ba trăm năm sau

Thiên hạ ai người khóc Tố Như

(Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như)


Mấy câu thơ ấy thuộc loại được nhắc nhở
nhiều nhất mỗi khi nói tới Nguyễn Du. Nhiều người chỉ thấy đấy là lúc
ông thương cảm cho số phận của mình. Nhưng tôi tưởng ở đây còn có một
cái gì khác, một niềm riêng tây nằm ở mãi trong tiềm thức nhà thơ. Trước
một tài năng bị nhiều thiệt thòi (phần lớn thơ Tiểu Thanh đã bị đốt)
ông hình dung ngay ra tương lai của mình và chỉ nói tới tiếng khóc.
Nhưng đằng sau chữ khóc ở đây phải chăng còn có chữ biết? Bởi người ta
chỉ khóc về những người mà người ta biết và cảm phục. Thành thử, có thể
chính Nguyễn Du chưa cảm nhận đầy đủ, song ở ông đã ẩn sẵn cái ý thức
sâu xa về sự có mặt của mình trong tương lai, một cách “ở lại với lịch
sử”. Trong một hoàn cảnh mà xã hội cứ muốn kéo người ta xuống – chế độ
phong kiến vốn nổi tiếng với những ràng buộc kiểu đó, trước hết là ràng
buộc về tư tưởng –, có thể nói đây là một sự vượt ngoài thông lệ.



Từ lối gián cách cần thiết tới một sự giải phóng

Một phần đáng kể thơ chữ Hán của Nguyễn Du là thơ đi sứ. 

Đi sứ thời tác giả Truyện Kiều
sống là gì? Là rơi vào đơn độc, là xa gia đình và môi trường quen thuộc
hàng năm liền, là cắt đứt mọị giao thiệp cảm tính hàng ngày để phải
đóng vai người đại diện cho đất nước ở một xứ sở xa lạ… 


Có nhớ lại hoàn
cảnh địa lý và phương tiện đi lại, nhớ lại tình trạng tâm lý phổ biến
của con người hai trăm năm trước, mới hiểu tại sao với người xưa, việc
đi sứ lại trở nên đáng sợ như vậy. Nhưng với những con người đã tự khẳng
định thì đây lại là một cơ hội tốt. Cơ hội dứt bỏ cái mè nheo phiền
phức hàng ngày. Cơ hội lùi ra xa để nhìn mọi chuyện. Cơ hội vượt lên cái
đời sống trần trần ai cũng thấy, để sống với một đời sống bao quát hơn
mà cũng là tinh tuý hơn.


Nguyễn Du chính là một người khai thác
những cuộc đi sứ theo ý nghĩa ấy và đây là điều bộc lộ khá rõ trong thơ
đến mức không giấu được ai. 


Ngay từ lần xuất bản đầu tiên 1958, những
người chuẩn bị cho việc in thơ chữ Hán Nguyễn Du là Bùi Kỷ, Phan Võ,
Nguyễn Khắc Hanh đã nhận xét: khi ở trong nước, “Nguyễn Du thường
than thở là
tiếu đề tuẫn tục nghĩa là phải chiều theo đời cả tiếng cười
tiếng khóc cũng không được tự do, nhưng lúc này là lúc ở nước ngoài,
cười tha hồ cười, khóc tha hồ khóc, Nguyễn Du muốn nói ra cho sướng
miệng hả lòng cho nên văn khí trong phần này xem ra khảng khái hùng
tráng
” [2] .


 Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII
nửa đầu thế kỷ XIX cũng cho rằng trong lúc đi sứ, nhà thơ mới “có thể
nói điều mình muốn nói” [3] .


 Quả thật trong việc đi sứ - để dùng lại
thuật ngữ của khoa nghiên cứu văn học ngày nay -Nguyễn Du có dịp sử dụng
sự gián cách để lạ hoá đời sống. Những tiềm năng trong ông được đánh
thức. Những ràng buộc quen thuộc bị gạt bỏ, ông như tìm tới một bậc tự
do mới cho sự suy nghĩ của mình. Người nghệ sĩ trong ông vượt lên tưởng
như không bị một giới hạn nào ngăn cản.


 Hai chữ cổ kim vốn đã xuất hiện
trong Nam trung tạp ngâm giờ đây lại luôn luôn thấy lặp lại trong Bắc
hành tạp lục. 


Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam – tôi muốn nói cả thơ hiện
đại – có một hồn thơ đi xa rộng trong không gian thời gian như Nguyễn
Du. 


Giá như được sống trong thế giới hôm nay, ông sẽ thích cái lý luận
về thời gian lớn của nhà triết học Nga M. M. Bakhtin.



Đi cụ thể hơn vào cuộc Bắc hành của người
từng viết Kiều.


 Trong khi thơ đi sứ của nhiều người khác chỉ tồn tại
trong hình thức thù tạc tầm thường hoặc những cuộc đấu trí mang tính
cách giai thoại, hoặc cùng lắm là những bài thơ sụt sịt nhớ vợ nhớ con
và mong sớm gặp lại gia đình, làng xóm quê hương - thì với Nguyễn Du, tình hình có phần
ngược lại. 


Ông sống với con người và cảnh vật xứ người một cách hết
lòng, không chỉ suy nghĩ về hiện tại mà còn thường xuyên trở lại với quá
khứ; không chỉ xót xa với hoàn cảnh khốn khổ của những người dân thường
như ông già hát rong ở Thái Bình, hoặc bốn mẹ con một người hành khất
(là những bài thơ lâu nay được các nhà nghiên cứu dành cho quá nhiều sự
ưu ái), mà còn đặt mình vào tình thế của những nhân vật kỳ vĩ, hội tụ
các vấn đề lớn của đời sống, như Khuất Nguyên, Kinh Kha, Tô Tần, Nhạc
Phi, Tần Cối… để nghĩ về những vấn đề khá trừu tượng.


 Một đặc điểm của
lịch sử Trung Hoa là ở đó có nhiều nhân vật đa dạng. Tôi trung vua hiền
có, mà kẻ gian giảo xảo quyệt cũng rất nhiều, cái gì ở đây dường như
cũng cực đoan cũng quá đáng. 


Lịch sử lại sớm được ghi chép thành những
khuôn mẫu, đồng thời mở ngỏ khả năng để người đời sau đánh giá lại. 


Như
nhiều nhà Nho Việt Nam, Nguyễn Du sớm được tiếp xúc các mẫu người đã ổn
định đó qua sách vở. 


Ông không bằng lòng với cách giải thích thông
thường.


 Trước đối tượng nào ông cũng nghĩ và buộc mọi người cùng nghĩ
với mình .


Bậc thánh vì danh hay vì thực nào ai biết?

 (Thánh nhân danh
thực hữu thuỳ tri?) 


Xưa nay ai là người có thể phá bỏ cuộc mê này?

 (Kim
cổ thuỳ năng phá thử mê?) 


Hồn ơi hồn ơi hồn làm thế nào?

 (Hồn hề, hồn
hề, nại hồn hà?). 


Những câu hỏi như vậy luôn luôn được đặt ra. Lịch sử
với ông không còn là cái tất yếu không thể cưỡng lại mà là cái lẽ ra nên
khác và luôn luôn có thể khác.






Nhiều người đã nói tới việc Nguyễn Du dùng
những nhân vật lịch sử Trung Hoa để liên hệ tới hoàn cảnh của mình,
tương tự như việc ông dùng cốt truyện mượn từ Thanh Tâm tài nhân,
câu chuyện về mấy chị em Kiều để miêu tả xã hội Việt Nam. 


Nhưng có lẽ ở
đây còn có thể nói tới một cái gì xa rộng hơn: những câu thơ hay nhất ở
đây dường như đã chạm tới những vấn đề của nhân loại. 


Trong một nhận
xét tạt ngang, nhà nghiên cứu Phan Ngọc có lần nói rằng văn hoá Việt Nam
có phần nhẹ chất nhân loại mà nặng chất dân tộc, và đó là một nhận xét
đúng. 


Bởi vậy, một khi thơ chữ Hán Nguyễn Du, bằng con đường riêng của mình, góp
phần vào việc bổ sung cho cái mặt thiếu sót đó, chúng ta lại càng thấy
trân trọng! 


Cũng như cái chất siêu hình mà các sáng tác của Nguyễn Du
đạt tới không phải là một điều đáng xấu hổ, như một ít nhà nghiên cứu
nghĩ, mà thực ra đáng tự hào. Ở nước nào cũng vậy, người ta thường vẫn
ghi nhận phẩm chất đó như là một dấu hiệu chứng tỏ một nền thơ đã trưởng
thành.



Cảm thông và thức tỉnh. Thử làm một cuộc đối chiếu


Xưa nay nói đến Nguyễn Du, mọi người nghĩ ngay tới Truyện Kiều mà người đọc quen gọi gọn lại là Kiều . 

Trong một cuốn sách tập hợp các bài viết về Nguyễn Du in ra gần đây [4] , phần viết về  Kiều
lên tới 815 trang trong khi phần viết về thơ chữ Hán chỉ vẻn vẹn có 128
trang. 


Tiếp tục làm cuộc thống kê thuần tuý số lượng thế này, người ta
thấy ở sự cảm thụ của các cây bút nghệ sĩ như Hoài Thanh, Xuân Diệu lẫn
những chuyên gia như Nguyễn Lộc, tỷ lệ cũng là tương tự. Giáo trình của
Nguyễn Lộc dành số trang viết về Kiều năm lần lớn hơn số trang viết về
thơ chữ Hán.


Trong hoàn cảnh ấy thì một số nhận xét viết trong Lời nói đầu bộ Nguyễn Du toàn tập in ra gần đây là một sự đính chính cần thiết. 

Theo như Mai Quốc Liên, người viết Lời nói đầu này, thì đừng vì đã có Kiều mà ra lòng rẻ rúng thơ chữ Hán. Bên cạnh Kiều phần thơ này cũng là một toà lâu đài sang trọng. Tỉ mỉ ra còn phải nói “Truyện Kiều
là diễn âm, lỡ tay mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán mới đích là sáng
tác và nên xem nó là phát ngôn viên chính thức của Nguyễn Du” [5] . Nói
cách khác, nếu ở  Kiều người ta mới thấy tấm lòng và tài năng, thì tới thơ chữ Hán, người ta thấy được cả tầm vóc, bản lĩnh Nguyễn Du.



Trong phạm vi tìm hiểu còn nông cạn của
mình, tôi cũng có cảm tưởng như Mai Quốc Liên và muốn nói rõ hơn cái
phần tâm huyết do đó là cái phần chân dung của Nguyễn Du trong thơ chữ
Hán bằng cách thử làm một cuộc đối chiếu:


Kiều được nâng niu do giá trị của tác phẩm
đã đành, nhưng còn xuất phát từ hai khía cạnh làm nên truyền thống cảm
thụ của nhiều thế hệ người đọc ở ta: một là dễ nao lòng trước những gì
đau xót gợi ra thái độ cảm thương và hai là coi trọng cái đẹp cảm tính
hơn là cái đẹp lý tính.


Không phải ngẫu nhiên, nói về Kiều, nhiều
người nghĩ ngay đến tiếng khóc. 


Xuân Diệu bảo đó là tiếng khóc vĩ đại. 

 Trong số những bí mật cần được lý giải về khả năng phổ biến của  Kiều,
đấy chính là yếu tố thứ nhất. 


Song phải thấy ngay rằng sự cảm thương
(hay rộng hơn là cảm thông) nói ở đây là hồn nhiên tự nhiên. Nguyễn Lộc
khi phân tích nhân vật chính của Đoạn trường tân thanh nhiều lần
dùng đến hai chữ ý thức, bao gồm từ “ý thức về cuộc sống” cho tới “ý
thức làm người”, và riêng với đoạn cuối tác phẩm thì cho rằng nàng Kiều
thuộc loại tuyệt vời ý thức [6] . 


Bởi lẽ với nhiều người chúng ta, Kiều
là một con người lý tưởng, nên sự tôn vinh như thế thật dễ hiểu. Ta muốn
dành cho Kiều mọi thứ tốt đẹp.


 Nhưng tôi tưởng nếu xem ý thức như một
sự thấu hiểu có vận dụng đến sự xét đoán phân tích bằng tư duy, thì làm sao có thể
nói là Kiều đạt tới cái trình độ cần thiết ấy cho được?!


Thử nghĩ lại mà xem, chẳng phải nghĩ tới
Kiều là người ta nghĩ đến những lầm lẫn của nàng? Trước chuyện gia đình
bị vu oan, nàng không bao giờ thử ngồi suy xét xem đầu đuôi mọi chuyện
thế nào, vì đâu đến nông nỗi đó, mà chưa chi đã nghĩ ngay đến chuyện bán
mình chuộc cha. 


Cũng vậy, nhìn chung cả cuộc đời Kiều, cái phần hấp dẫn
nhất là tình, nhưng đó là thứ tình thiếu sự hướng dẫn của lý trí. 


Ma
dẫn lối quỷ đưa đường – lại tìm những lối đoạn trường mà đi
, khi khái
quát vậy, Nguyễn Du quả đã bắt trúng cái thần của nhân vật, và ông đã
diễn tả Kiều theo cái cách đó bằng tất cả tài năng kỳ diệu của mình.
Chẳng phải là với nhiều người chúng ta, những đoạn Kiều gần gũi nhất là
những đoạn buồn: Là đoạn khái quát cuộc đời Đạm Tiên? Là đoạn Kiều trao
duyên lại cho em? Là đoạn Kiều nhớ nhà?…


Những vấn đề tư tưởng ấy lại thấm cả vào mỹ cảm và nghệ thuật. Xét về vẻ đẹp thì quả thật Truyện Kiều
là một cái gì chín đầy rực rỡ. Nhưng phải nói thêm, ngay trong việc vận
dụng thể lục bát, cái đẹp ở đây nhiều khi đã như lạ lùng ma quái. Trong
Văn chương Truyện Kiều in lần đầu năm 1945, Nguyễn Bách Khoa tức
Trương Tửu từng có sự cảm thụ tinh tường nét đặc sắc này của tác phẩm
[7] . "Ghê gớm thay là cái điệu thơ lục bát nó triền miên cuốn người ta
theo cái tâm hồn sầu thảm và làm lan toả mãi mối cảm thương trước một
hoàn cảnh bất lực. Với việc đưa lục bát lên đến tuyệt đỉnh, Truyện Kiều an ủi chúng ta nhưng cũng giữ chúng ta trong một sự cam chịu không cưỡng lại nổi."


Ở chỗ 3.254 câu Kiều dừng lại, thì thơ chữ
Hán bắt đầu.


 Mấy chữ tuyệt vời ý thức, mà Nguyễn Lộc nói, nên dành cho
thơ chữ Hán. 


Giọng thương cảm vẫn còn, nhưng nó chỉ giúp vào việc làm
tăng hiệu quả của cái phần suy nghĩ chỉ có ở những người thông thạo sách
vở. Cảm quan hoài nghi kín đáo nhưng bàng bạc khắp nơi, một thứ hoài
nghi lành mạnh. 


Lời kêu gọi toát lên từ những dòng thơ Phản chiêu hồn,
Độc Tiểu Thanh ký
: Hãy nhìn rộng ra cả thế giới. Hãy biết đến những gì ở
ngoài mình, ở ngoài xứ sở của mình nữa. Khóc một chút thôi rồi hãy lau
nước mắt mà nhìn vào sự thực... 


Cố nhiên, vốn xa lạ với thứ thơ thuyết
giáo dạy dỗ mọi người, Nguyễn Du không nói những câu bắt đầu bằng chữ
hãy ấy với người đọc, song chính là từ các câu thơ người đọc nhận ra
những gì mà tác giả tha thiết. Thậm chí ngay cả khi Nguyễn Du thú nhận
sự bất lực rơi vào tuyệt vọng thì thơ ông vẫn có khả năng thúc đẩy sự
suy nghĩ trong ta và kéo chúng ta về phía ánh sáng của trí tuệ.



Vẻ đẹp trong thơ vốn có nhiều sắc thái
khác nhau. 


Trong Kiều có vẻ đẹp của Long lanh đáy nước in trời

 Thành
xây khói biếc non phơi bóng vàng
,


lại có vẻ đẹp của những câu thơ đơn
giản kiểu như: 


Mai sau dù có bao giờ

Song ở Kiều loại thứ nhất nhiều
hơn. 


Còn loại thứ hai thì phải đến thơ chữ Hán mới thật là có một sự
trình diện liên tục: 


Ngoài cửa sổ hoa cúc vàng tươi tốt có thể ăn được 

 (Song ngoại hoàng hoa tú khả xan); 

Hoa để tặng người mình sợ 

(Hoa dĩ
tặng sở uý
); 


Lúc múa may quay cuồng điên dại nhất là lúc đẹp nhất

 (Tối
điên cuồng xứ tối phong lưu
)...


 Nhìn chung lại, nếu Kiều khai thác mối
cảm thông giữa người với người, thì thơ chữ Hán chọn cách tác động của
sự thức tỉnh. 


Kiều an ủi ta, còn thơ chữ Hán làm phiền ta, buộc ta phải
đặt lại nhiều vấn đề của đời sống. 


Kiều là du xuân, là tiếng khóc nhớ
nhà, là những cảnh đầy ải không rõ nguyên nhân tại sao.


 Thơ chữ Hán là
chuyến đi xa đơn độc, là con người đối diện với sách vở, với thời gian
và lịch sử. Kiều gợi không khí của những ngày ê chề buồn bã, mộng thực
lẫn lộn. 


Thơ chữ Hán là những đêm không ngủ suy xét sự đời. 

Người làm
thơ trong Kiều thủ thỉ tâm sự vỗ về bạn đọc. 


Người làm thơ trong thơ chữ
Hán đòi hỏi chất vấn chúng ta, buộc chúng ta đối mặt với cuộc làm người
vất vả mà thú vị. 


Nhưng chính vì vậy thơ chữ Hán là sản phẩm của sự
trưởng thành. Chủ nghĩa nhân đạo thường được hiểu một cách giản dị: chia
sẻ với nỗi đau khổ của con người. Tóm lại là một chữ thương.


 Trong thơ
chữ Hán, Nguyễn Du đã đi gần tới một thứ chủ nghĩa nhân đạo khác - chủ
nghĩa nhân đạo của sự hiểu. 


Đó là một quan niệm chỉ trong thời hiện đại
mới được nẩy nở đầy đặn. Và nó lại cũng chính là thứ chủ nghĩa nhân đạo
cần cho chúng ta hôm nay hơn cả. Chữ tâm đối với Nguyễn Du lúc này không
còn là một thứ sụt sùi thương cảm, để che giấu sự bất lực; tâm đã biến
thành cái hích đầu tiên buộc đầu óc chúng ta làm việc, bước đầu tiên để
giúp con người sống đúng tầm người.



Tiếng rền của núi

Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh từng thử đếm và thấy trong 65 bài ở Thanh Hiên thi tập
có đến mười bảy lần nhắc đến mái đầu bạc. Tiếp tục lối thống kê ấy,
người ta có thể nhận ra nhiều chi tiết cho thấy sự già dặn ở con người
Nguyễn Du. Trong thơ ông người ta gặp những ngày lạnh hơn những ngày
nóng, gặp mùa thu mùa đông nhiều hơn mùa xuân mùa hè, gặp ánh trăng gợi
những ý tưởng hư vô xa xôi nhiều hơn mặt trời thôi thúc người ta chen
cạnh với đời.


Những đêm không ngủ của Nguyễn Du mà phần trên đã nói cũng phụ hoạ thêm cho cảm giác đó:

Suốt đêm nghĩ ngợi thao thức không ngủ

Văng vẳng nghe tiếng sáo trong ánh trăng suông

(Quan tâm nhất dạ khổ vô thuỵ

Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung)


Đêm khuya, băn khoăn một mình đối bóng

Nằm trên giường nghe mưa tầm tã mà sốt ruột

(Trùrướng thâm tiêu cô đối ảnh

Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh )

Không chỉ già trước tuổi, Nguyễn Du còn
hiện ra như một người thâm trầm lặng lẽ sống nhiều với nội tâm. Ta có
thể đoán hàng ngày, có vẻ như ông là người ít nói ngại nói. Người ta có
lúc đã nghĩ nhầm về ông. Một nhà nghiên cứu tả ông như “một kẻ tuỳ thời,
ích kỷ, nhút nhát thích an nhàn, mơ giàu sang, sợ biến cố và tranh đấu”
[8] .




Chỉ có thơ chiêu tuyết cho ông. Một bài như Phản chiêu hồn cho thấy một cách nghĩ quyết liệt hiếm có:

Thành quách vẫn như cũ nhưng nhân dân đã khác rồi

(Thành quách do thị nhân dân phi)





Đời sau ai ai cũng là Thượng Quan

Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La

(Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan

Đại địa xứ xứ giai Mịch La)

Thượng Quan là kẻ chuyên môn gièm pha. Còn
Mịch La là tên con sông Khuất Nguyên tới trẫm mình. Ai cũng là Thượng
Quan, đâu cũng Mịch La, nghĩa là cuộc đời này hỏng hết rồi!


 Trong thơ
xưa nói chung ít khi thấy một lối nói đến kiệt cùng chi lý, nói trăm
phần trăm, nói không chừa một chỗ nào để lùi. 


Lỗi phạm quy của Nguyễn Du
là cố ý!


Nên để ý thêm là dưới con mắt của các sử gia từng viết Đại nam chính biên liệt truyện,
thì Nguyễn Du là người ngạo nghễ tự phụ [9] .


 Thời phong kiến, những
người có chính kiến riêng, tức là những người trẻ trung tươi mới trong
cách nghĩ, thường bị ghép cho cái tội đáng ghét ấy. Nguyễn Du cũng ở
trong số này chăng?


Ta vốn có tính yêu núi. Trong bài Tiềm sơn đạo trung in trong Bắc hành tạp lục,
vụt lên một câu thơ lạ vậy. Trong nguyên văn chữ Hán Túc hữu ái sơn
tích
, chữ tích ở đây có nghĩa là một thứ tật, một thói quen đã bền chắc
như là một sự nghiện ngập, và muốn cho chính xác phải dịch thành Ta vốn
nghiện núi.
Tôi cho rằng đây là một trong số những câu thơ đáng nhớ vì
có ý nghĩa thông báo về tác giả. Hoá ra Nguyễn Du không phải chỉ là cát
vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia; mà hình ảnh gợi đúng về ông phải là những
ngọn núi, núi đơn độc, núi vượt lên trên sự bằng phẳng. Và thơ Nguyễn Du
là một thứ tiếng rền của núi!


Liệu có thể nói cái phần bên trong rắn rỏi
khoẻ mạnh lão thực mới là phần chính trong con người ông? Nếu thế thì
còn có thể nói là ông trẻ trung mãi mãi.






-------

[1]Thơ trích trong bài đều lấy từ Thơ chữ Hán Nguyễn Du do Lê Thước Trương Chính biên soạn, NXB Văn học, 1965

[2]Dẫn theo Hoài Thanh, Tâm tình Nguyễn Du
qua một số bài thơ chữ Hán,
1960. Chính Hoài Thanh sau khi dẫn đã viết
thêm “Nhận xét này rất đúng».


[3]Sách dẫn trên, bản của NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp 1978, tr. 43

[4]Nguyễn Du. Về tác giả và tác phẩm, Trịnh Bá Đĩnh biên soạn, NXB Giáo dục, bản in 2003.

[5]Dẫn theo bản in lại trong sách Nguyễn Du. Về tác giả và tác phẩm, tr. 120

[6]Nguyễn Lộc, sđd, tr. 98

[7]In lại trong Nguyễn Bách Khoa, Khoa học văn chương, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn và giới thiệu NXB Văn hoá thông tin, 2003

[8]Ý của Nguyễn Bách Khoa tức Trương Tửu, Trương Chính dẫn lại trong Lời giới thiệu Thơ chữ Hán Nguyễn Du, xem sách này  tr. 30

[9] Dẫn theo Nguyễn Lộc, tr .17


 Đã in trên blog này ngày 7-12-2004

và đưa lại vào tuyển tập Vương Trí Nhàn -- Phê Bình và tiểu luận, 2009




Nguyễn Du như một thi sĩ Nguyễn Du như một thi sĩ Reviewed by Phạm Thu Hương on 06:48 Rating: 5

Không có nhận xét nào: